1. Chuẩn bị ao nuôi
:
Ao nuôi lóc bông có
diện tích từ 500m2 trở lên, độ sâu từ 2,5-3m. Bờ ao phải cao và chắc
chắn, không bị lỗ rò. Cống thoát nước nằm sát đáy ao và có khẩu độ lớn để nước
thoát dễ dàng. Trước khi thả cá nuôi, ao được tát cạn, vét bớt bùn đáy, tu sửa
chỗ sạt lở, lấp hết hang hố quanh ao. Rải vôi đáy ao từ
10-15kg/100m2, phơi nắng 2-3 ngày rồi cấp nước vào ao. Nguồn nước cấp
cho ao phải chủ động, cấp thoát dễ dàng, nước không bị nhiễm phèn và mặn (pH
phải từ 6 trở lên, độ mặn dưới 5o/oo).
2. Mùa vụ nuôi, cá
giống và mật độ thả :
Ở các tỉnh Nam bộ có
thể thả nuôi quanh năm. Các tỉnh có khí hậu lạnh như miền bắc nên nuôi một vụ,
thả cá nuôi vào tháng 3-4 và thu hoạch cá vào trưcớ mùa đông.
Cá giống thả nuôi có
kích cỡ đồng đều, trọng lượng thân từ 15-20g/con. Cá phải khoẻ mạnh, nhanh nhẹn,
màu sắc sáng, cơ thể cân đối, nhiều nhớt. Trước khi thả xuống ao nuôi, cá giống
được tắm nước muối nồng độ 2,5-3%. Nên thả cá vào lúc trời mát, buổi sáng sớm
hoặc chiều mát.
Mật độ thả nuôi tại Hà
Tây : 2-4 con/m2. Có thể tăng mật độ nuôi lên nếu các điều kiện như :
nguồn nước, nguồn vốn, trình độ kỹ thuật… đảm bảo.
3. Thức ăn, quản lý
và chăm sóc cá nuôi :
3.1. Thức ăn cho
cá nuôi :
+ Thức ăn chủ yếu là
là tạp biển, cá vụn, tép, cua, ốc và phụ phẩm lò mổ gia súc, gia cầm. Giai đoạn
cá còn nhỏ trong 2 tháng đầu, thức ăn cần được xay nát hoặc băm nhỏ. Khi cá lớn
thì chỉ cần băm nhỏ hoặc cắt khúc những lợi thức ăn có kích cỡ quá lớn hoặc dài.
Khẩu phần ăn từ 3-5% trọng lượng thân (khi cá đạt cỡ >100g/con). Cá càng lớn
thì khẩu phần ăn càng giảm dần.
Có thể chế biến thức
ăn từ các nguyên liệu như trên xay nhỏ và trộn với cám hoặc tấm nấu chín rồi rải
trên sàn cho cá ăn, trong đó cá tạp chiếm 50% trở lên. Nói chung hàm lượng đạm
trong thức ăn phải đảm bảo từ 25-35% trở lên thì mới đạt được theo nhu cầu dinh
dưỡng của cá. Giai đoạn đầu cho đến 2 tháng tuổi, hàm lượng đạm trong thức ăn
đảm bảo 35%, sau đó giảm dần xuống còn 28%, ở các tháng cuối còn 25%. Khẩu phần
ăn với thức ăn chế biến từ 5-7% trọng lượng thân.
Sàng ăn của cá có kích
thước dài từ 3-4m, rộng 0,5m và đặt gần bờ, ngập sâu trong nước khoảng10cm. Khi
cá ăn cá trườn lên sàn để dành thức ăn. Sau khi cá ăn và trước bữa ăn mới, nên
rửa sạch sàng ăn.
Hệ số tiêu tốn thức ăn
tuỳ thuộc vào chủng loại và chất lượng thức ăn. Với thức ăn là cá biển (cá tạp),
hệ số thức ăn trung bình từ 3,5 - 4 (tức là cứ cho cá ăn 3,5-4kg cá tạp thì tăng
trọng được 1kg cá lóc bông). Thức ăn chế biến cho hệ số thức ăn từ 3,2 -
4.
3.2. Chăm sóc cá
nuôi :
Hàng ngày theo dõi
chặt chẽ mức độ ăn của cá để điều chỉnh kịp thời và hợp lý số lượng thức ăn.
Hàng tháng kiểm tra cân đo trọng lượng cá để theo dõi mức tăng trưởng của
cá.
Nước trong ao được
thay mỗi tháng 1-2 lần, mỗi lần thay từ 30-40% tổng lượng nước trong
ao.
Thường xuyên theo dõi
hoạt động của cá và kịp thời phát hiện những dấu hiệu khác lạ như cá bỏ ăn, bơi
không bình thường, nhiễm bệnh… để có biện pháp chữa trị kịp thời.
4. Phòng và trị
bệnh cho cá lóc bông :
4.1. Bệnh
do nhiễm khuẩn : Cá bị bệnh thì da sậm lại và vết này lan ra vùng bụng
và các phần khác trên cơ thể, vẩy dễ rơi rụng, mắt phù và mờ đục, xoang bụng
chứa dịch, nội tạng hoại tử. Tỷ lệ chết rất cao khi cá bị sốc và thiếu dinh
dưỡng.
* Phòng trị bệnh
:
- Không nuôi mật độ
quá cao, tránh làm cho cá bị sây sát khi kéo lưới hoặc đánh bắt kiểm tra, giữ
cho môi trường nuôi không bị nhiễm bẩn do thức ăn dư thừa và từ các nguồn nước
thải công nghiệp…
- Dùng thuốc tím
(KMnO4) tắm cá, liều dùng 10g/m3 nước cho cá nuôi, xử lý
lặp lại sau 3 ngày. định kỳ tắm cho cá 2 tuần/lần.
- Hoặc dùng một trong
các loại kháng sinh trộn vào thức ăn liều lượng như sau:
+ Streptomycin :
50-70mg/kg thể trọng cá nuôi, liên tục
+ Kanamycin : 50mg/kg
thể trọng cá, liên tục trong 7 ngày
- Tăng cường thêm
Vitamin C trộn vào thức ăn, liều lượng 20mg/kg thức ăn trong thời gian dùng
thuốc trị bệnh. Cải thiện chất lượng nước, thay nước mới sạch, đảm bảo hàm lượng
Oxy hoà tan trên 4mg/l.
4.2. Bệnh
đóm đỏ : Cá bị bệnh là xuất huyết trên da, bụng, xung quanh miệng, nắp
mang có thể chảy máu, một vài chỗ trên thân, có thể bị tuột
nhớt.
* Phòng trị
bệnh : Dùng thuốc tím KMnO4 3-5g/m3 nước để tắm cho cá
bè. Dùng kháng sinh để điều trị như trong bệnh nhiễm khuẩn
huyết.
4.3. Bệnh
trùng mỏ neo : Trùng ký sinh và hút chất dinh dưỡng của cá làm viêm loét
da, mang, vây, gây ra các vết thương tạo điều kiện cho các tác nhân khác gây
bệnh như : nấm, ký sinh trùng, vi khuẩn… xâm nhập.
* Phòng trị bệnh
:
- Luôn giữ vệ sinh ao,
bè cẩn thận, sạch sẽ trong quá trình nuôi
- Chọn giống kỹ và
không có trùng mỏ neo đeo bám
- Trước khi thả phải
tắm nước muối 3% cho cá trong 10 phút
- Khi phát hiện cá
nhiễm bệnh, dùng thuốc tím 10-25g/m3 tắm trong một giờ. Có thể dùng
lá xoan ngâm dưới nước liều lượng 0,3-0,5kg/m3.
4.4. Bệnh
rận cá : Chúng ký sinh bám trên da cá, hút máu cá đồng thời phá huỷ da
cá, làm viêm loét tạo điều kiện cho vi khuẩn, nấm ký sinh trùng khác xâm nhập và
gây bệnh cho cá nuôi.
* Phòng trị bệnh
:
Khi cá nhiễm bệnh,
dùng thuốc tím (KMnO4) với nồng độ 10g/m3 tắm hoặc ngâm
trong 1 giờ.
Kĩ sư :
Hoàng Tiến Minh
|
Saturday, February 25, 2012
Qui Trình KT Nuôi Thương Phẩm Cá Lóc Bông Trong Ao
Labels:
NUÔI CÁ LÓC
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment